Dãy núi Tam Điệp xưa Dãy_núi_Tam_Điệp

Thời tiền sử

Khu vực Tam Điệp-Tràng An là một vùng đất cổ, những dấu tích người tiền sử ở dãy núi Tam Điệp cho thấy từ xa xưa nơi đây đã là một cái nôi của loài người. Đây là vùng đất phù sa cổ ven chân núi có con người cư trú từ rất sớm. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trầm tích có xương răng đười ươi và các động vật trên cạn ở Núi Ba thuộc nền văn hóa Tràng An thời kỳ đồ đá cũ và một số hang động ở Tam Điệp có di chỉ cư trú của con người thời văn hoá Hoà Bình.

Di tích xưa nhất là di tích núi Ba - thuộc phường Bắc Sơn, thành phố Tam Điệp. Trong lớp trầm tích màu vàng dày hàng mét ở một số hang và sườn núi chứa nhiều răng hàm, xương chi đười ươi, xương răng các loại lợn rừng, nhím, voi răng kiếm... Niên đại của các hoá thạch động vật này khoảng 30 vạn năm về trước. Điều này, giúp ta hình dung về môi trường sống cổ xưa, những loài thú hoang dã ăn thịt, ăn cỏ, đây cũng là môi trường sống của người tối cổ. Di tích Thung Lang thuộc phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp. Năm 1941 nhà khoa học người Pháp J. Fromaget khai quật tìm thấy răng gấu tre và 01 hoá thạch răng người vượn (Homo eretus). Các học giả Việt Nam có quay lại địa điểm này tìm thấy hài cốt người và cho rằng là di cốt người tinh khôn (Homo Sapeins Sapiens).[2]

Vùng đất này nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực: Tây Bắc, đồng bằng sông HồngBắc Trung Bộ. Đặc điểm đó đã tạo ra một nền văn hóa tương đối năng động, mang đặc trưng khác biệt trên nền tảng văn minh châu thổ sông Hồng.

Trong lịch sử

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc, vùng Tam Điệp giữ một vị trí chiến lược trọng yếu, là “cổ họng Bắc-Nam”, là một bức tường thành tự nhiên án ngữ các đường giao thông thuỷ bộ Bắc-Nam qua vùng này. Người Việt vừa khai phá các đường giao thông đó nhằm mở rộng giao lưu kinh tế - văn hoá trong nước, vừa triệt để lợi dụng địa thế hiểm yếu để bịt kín các đường giao thông đó khi cần ngăn chặn kẻ thù từ bắc tiến vào. Lịch sử đã nhiều lần chứng minh vị trí chiến lược của vùng Tam Điệp trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và cả trong một số cuộc nội chiến do các thế lực phong kiến gây ra.[3]

Vào đầu Công nguyên, nghĩa quân Hai Bà Trưng đã từng dựa vào tuyến địa hình núi rừng Tam Điệp - Thần Phù để chống cự lại cuộc tiến công đàn áp của quân Hán do Mã Viện chỉ huy. Đầu thế kỷ X, Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền cũng dựa vào bức tường thành Tam Điệp để xây dựng và bảo vệ lực lượng ở Thanh Hoá, rồi tiến ra đánh bại quân xâm lược Nam Hán, lập nên chiến công lẫy lừng ở Đại La năm 930, Bạch Đằng năm 938. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông hồi thế kỷ XIII, triều Trần đã sử dụng bức tường thành Tam Điệp để bảo vệ hậu phương Ái - Diễn và làm chỗ dựa cho căn cứ Thiên Trường - Trường Yên. Trong kháng chiến chống Minh đầu thế kỷ XV, tuyến phòng thủ chủ yếu của Nhà Hồ đặt ở bờ sông Hồng với hai thành luỹ then chốt là Đông Đô và Đa Bang. Nhưng các đường thuỷ bộ qua Tam Điệp - Thần Phù cũng được triều Hồ cho lấp, dựng thành để ngăn chặn địch, bảo vệ thành Tây Đô ở Thanh Hoá. Sau khi cuộc kháng chiến do triều Hồ lãnh đạo bị thất bại, nhiều phong trào yêu nước chống Minh cũng đã sử dụng vị trí và địa thế vùng Tam Điệp làm căn cứ khởi nghĩa hay bàn đạp tiến công địch. Năm 1426 - 1427, nghĩa quân Lam Sơn do Bình Định Vương Lê Lợi lãnh đạo cũng nhiều lần qua lại vùng Tam Điệp trên đường tiến ra giải phóng các lộ vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sang thế kỷ XVI, vùng Tam Điệp đã từng đau thương chứng kiến cảnh chia cắt và nội chiến do các phe phái phong kiến Lê - Trịnh và Mạc gây ra. Tam Điệp nằm trên đường phân giới giữa Nam triều - Bắc triều và là chiến trường của nhiều cuộc hỗn chiến phong kiến ấy.

Tam Điệp chứa đựng nhiều di tích lịch sử của nhiều trều đại. Nhưng Tam Điệp nổi tiếng trong lịch sử là với “nước cờ Tam Điệp” của Ngô Thì Nhậm, với phòng tuyến Tam Điệp của quân đội Tây Sơn trong cuộc kháng chiến chống Thanh năm 1788 - 1789, với tài cầm quân của nhà quân sự Quang Trung - Nguyễn Huệ.

Trong văn thơ

Hồ Đồng Thái bên dãy núi Tam Điệp lúc hoàng hônMột góc hồ Đồng Chương

Quốc Sử quán triều Nguyễn thì viết

“… Đứng ở đỉnh núi trông ra ngoài biển, buồm thuyền như lá tre, hai ngọn phía tả hữu nơi thấp và bằng. Năm Thiệu Trị thứ 3 Vua xa giá tuần du phương Bắc, có làm thơ khắc vào đá dựng nhà bia ở ngọn giữa”.[4]

Hai câu cuối trong bài thơ khắc trên đỉnh đèo Ba Dội của vua Thiệu Trị như sau:

Thanh Ninh hai trấn đây ranh giớiLên xuống, quanh co lượn khắc vùng.

Phan Huy Chú đã viết về ngọn núi cao, cỏ cây xanh tốt, đứng trên ngọn núi trông thấy biển lớn, là một cửa ải trọng yếu. Núi ở chung quanh, đường đi ở giữa, trông về hai bên tả hữu, núi như chậu úp một loạt, chỗ gần hết núi thì hai bên như bức vách đứng thẳng lên, giữa có một lối đi lại, tục truyền đó là miệng của thầy tu Khổng Lồ (tức sư Minh Không đời Lý, tục gọi là Khổng Lồ).Ngô Thì Sĩ đã có thơ vịnh:

Dãy núi trập trùng tầm mắt thoángTựa đó đơm trời trấn Cửa Chân.[5]

Bài thơ Tam Điệp Sơn của Nguyễn Khuyến do Hoàng Tạo dịch có câu:

Phóng mắt đầu non Tam Điệp rõ,Ngoảnh đầu dòng nước Cửu Long xa.

Bài thơ "Ký mộng" (Ghi lại giấc mộng) của Nguyễn Du do có câu được dịch nghĩa như sau:[6]

Núi Tam Điệp nhiều hổ báo,Sông Lam lắm thuồng luồng.